I was recently contacted by Nguyễn Quốc Bình, who asked if he could translate my paper into Vietnamese. Of course, I was honored by the request, so here it is!
PDF Version: Nhập môn Chú Giải Pāḷi
Nhập môn Chú Giải Pāḷi
John Emmer
Môn Phương pháp luận
nghiên cứu
Giáo sư Udaya Meddegama
SIBA, Tháng Chín, 2012
Bản dịch 1.4
Dịch xong ngày 6/2/2013
Chỉnh sửa lần cuối ngày 11/2/2013
Nguyên tác: Introduction
to the Pāli Commentaries
https://www.dropbox.com/s/v62ri1vdtoix74m/Commentaries.pdf
Ghi chú của người dịch: Bài viết này khá cơ bản cho người mới bắt
đầu tìm hiểu về Chú Giải Pāḷi. Tác giả hiện là MA student ở Sri Lanka và đây có
vẻ là bài viết cho một môn học tuy nhiên với bài viết này, tác giả đã phác họa
một số nét chính yếu đồng thời trích dẫn một số quan điểm của các học giả hiện
đại về lĩnh vực này. Vì để cung cấp một cái nhìn nhiều chiều đồng thời tuân thủ
nguyên tắc của dịch thuật là không được thay đổi ý nguyên tác nên một số điểm
khó hiểu hay một số chỗ dịch thoát được ghi thêm trong phần kết chú và được kí
hiệu là (ND) bên cạnh các ghi chú của chính tác giả. Tên gọi của các tác phẩm
cũng được cố gắng Việt hóa theo tiêu chí trang trọng và dễ hiểu. Các tên dịch
bằng tiếng Hán được ghi lại ở đây không chú trọng phồn thể hay giản thể và được
lược bỏ bớt các từ thêm vào cho rõ nghĩa như “Kinh”, “Luận”, “Sớ”… Được sự đồng
ý của tác giả, rất hân hạnh giới thiệu đến quý vị bài viết này. Hy vọng bài
viết có thể giúp mở ra nhiều nghiên cứu mới cho lĩnh vực này tại Việt Nam.
Ghi chú của tác giả: Đây là bài báo mới nhất của tôi. Tôi vẫn
chưa hài lòng với nó. Khi viết bài này, tôi có một vài quan điểm khác nhau, vì
vậy nó thực sự cần phải được lượt lại cho nhất quán hơn và nên sắp xếp lại theo
từng mục. Và thậm chí là tôi chưa đề cập đến các phụ chú giải hay phụ phụ chú
giải[1]… Tuy nhiên bài viết đã đáp ứng được mục tiêu chính của nó là giúp cho
tôi hiểu rõ ý nghĩa của các “chú giải”.
------------------------------------------------------
Trong khi đọc bản dịch tiếng Anh của Chánh Tạng Pāli, người ta thường
thấy các cước chú chỉ ghi là tham chiếu tới “chú giải” và người đọc phải tự
giải đáp xem nó có nghĩa là gì. Ví dụ như trong bản Trung Bộ (Majjhima Nikāya) của Tỳ Khưu Bodhi có cả chữ “chú giải” và kí
hiệu “MA”, tức là viết tắt của Majjhima Nikāya Aṭṭhakathā (Chú Giải Trung Bộ) nhưng nó vẫn không đủ tường minh để người đọc
hiểu các dẫn chứng này là xuất phát từ cùng một nguồn tư liệu[2]. Và trong bản
dịch Tăng Chi Bộ (Aṅguttara Nikāya) của Woodward, ta cũng chỉ tham chiếu tới “Comy”[3], mà lại chẳng có Danh Sách Chữ Viết Tắt, cho nên người ta có
thể hiểu lầm đây là tên tác giả.[4] Rõ ràng là đối với độc giả, một nghiên cứu
độc lập về các “chú giải” rất cần thiết để có thể hiểu thấy đáo về những gì
mình đang đọc. Bài báo này chỉ là một nỗ lực để trình bày một cái nhìn tổng
quan về hệ thống chuẩn các chú giải cho Chánh Tạng Pāḷi, định hướng cho người
mới bắt đầu tiếp cận các bản dịch tiếng Anh[5] của Chánh Tạng muốn biết các chú
giải này nghĩa là gì và cái nào đã được dịch ra tiếng Anh.
Các
tham chiếu đến "chú giải" cho bất kỳ nghiên cứu nào về Chánh Tạng thì
chắc chắn có nghĩa là đang đề cập đến một tác phẩm cụ thể được viết vào thể kỷ
XV hay XVI Tây Lịch[6] ở Sri Lanka. Bảng sau đây lấy từ công trình của
Goonesekere sẽ cung cấp danh sách đầy đủ các chú giai này. Xem thêm phụ lục cho
các bản đã dịch sang tiếng Anh, .
Danh sách Chủ Giải
Pāli[7]
Chánh Tạng
|
Chú Giải
|
Tác giả Chú Giải
|
|
Thanh Tịnh Đạo (Visuddhimagga)
|
Buddhaghosa
|
Luật
(Vinaya)
|
|
|
Tạng Luật (Vinaya Piṭaka)
|
Toàn Thiện[8] (Samantapāsādika)
|
Được cho là
Buddhaghosa
|
Biệt Giải Thoát[9] (Pātimokkha)
|
Thoát Nghi[10] (Kaṅkhāvitaraṇī)
|
Được cho là
Buddhaghosa
|
Kinh
(Sutta)
|
|
|
Trường Bộ (Dīgha Nikāya)
|
Cát Tường Minh[11] (Sumaṅgalavilāsinī)
|
Buddhaghosa
|
Trung Bộ (Majjhima Nikāya)
|
Tẩy Trừ Chướng
Ngại[12] (Papañcasūdani)
|
Buddhaghosa
|
Tương Ưng Bộ (Saṃyutta Nikāya)
|
Hiển Dương Yếu
Nghĩa[13] (Sāratthapakāsinī)
|
Buddhaghosa
|
Tăng Chi Bộ (Aṅguttara Nikāya)
|
Mãn Túc Cầu[14] (Manorathapurāṇī)
|
Buddhaghosa
|
Tiểu Bộ (Khuddaka Nikāya)
|
|
|
- Tiểu Tụng (Khuddakapāṭha)
|
Thắng Nghĩa Quang[15]
(Paramatthajotika)
|
Được cho là
Buddhaghosa
|
- Pháp Cú (Dhammapada)
|
Chú Giải Pháp Cú (Dhammapadaṭṭhakathā)
|
Được cho là
Buddhaghosa
|
- Cảm Ngữ[16] (Udāna)
|
Thắng Nghĩa Đăng[17] (Paramatthadīpanī)*
|
Dhammapāla
|
- Như Thị
Thuyết[18] (Itivuttaka)
|
Thắng Nghĩa Đăng (Paramatthadīpanī)*
|
Dhammapāla
|
- Kinh Tập[19] (Suttanipāta)
|
Thắng Nghĩa Quang (Paramatthajotika)
|
Được cho là
Buddhaghosa
|
- Chuyện Thiên
Cung (Vimānavatthu)
|
Thắng Nghĩa Đăng (Paramatthadīpanī)*
|
Dhammapāla
|
- Chuyện Ngạ Quỷ
(Petavatthu)
|
Thắng Nghĩa Đăng (Paramatthadīpanī)*
|
Dhammapāla
|
- Trưởng Lão Kệ (Theragātha)
|
Thắng Nghĩa Đăng (Paramatthadīpanī)*
|
Dhammapāla
|
- Trưởng Lão Ni
Kệ (Therigātha)
|
Thắng Nghĩa Đăng (Paramatthadīpanī)*
|
Dhammapāla
|
- Bổn Sanh[20] (Jātaka)
|
Chú Giải Bổn Sanh (Jātakahakatha)
|
Được cho là
Buddhaghosa
|
- Thích Nghĩa[21]
(Niddesa)
|
Chân Pháp Quang[22] (Saddhammapajjotika)
|
Upasena
|
- Phân Tích
Đạo[23] (Paṭisambhidāmagga)
|
Hiển Dương Chân
Pháp[24] (Saddhammappakāsinī)
|
Mahānāma
|
- Thánh Nhân Kí
Sự[25](Apadāna)
|
Tịnh Nhân Minh[26] (Visuddhajanavilāsinī)
|
Chưa biết
|
- Phật Sử[27] (Buddhavaṃsa)
|
Diệu Ý Minh[28] (Madhuratthavilāsinī)
|
Buddhadatta
|
- Hạnh Tạng[29] (Cariyāpiṭaka)
|
Thắng Nghĩa Đăng (Paramatthadīpanī)*
|
Dhammapāla
|
Vi Diệu Pháp
(Abhidhamma)
|
|
|
Pháp Tụ[30] (Dhammasaṅgaṇī)
|
Thắng Nghĩa[31] (Atthasālinī)
|
Được cho là
Buddhaghosa
|
Phân Tích[32] (Vibhaṅga)
|
Tiêu Trừ Si Ám[33] (Sammohavinodanī)
|
“
|
Luận Sự[34] (Kathāvatthu)
|
Chú Giải Ngũ Thư[35] (Pañcappakaraṇaṭṭhakathā)
|
“
|
Nhân Chế Định[36] (Puggalapaññatti)
|
“
|
“
|
Giới Thuyết[37] (Dhātukathā)
|
“
|
“
|
Song Đối[38] (Yamaka)
|
“
|
“
|
Đa Nguyên[39] (Paṭṭhāna)
|
“
|
“
|
(Goonesekere 13-14)
Ta chú ý vài điều ngay ở
danh sách này:
1.
Thanh
Tịnh Đạo được đưa vào trong
danh sách, nhưng không liên quan đến bất kỳ bản văn kinh cụ thể nào.
2.
Hầu hết các bản văn là
do hoặc ‘được cho là’ do Buddhaghosa viết.
3.
Chú giải mà Bhikkhu
Bodhi gọi là Chú Giải Trung Bộ (Majjhima Nikaya Atthakathā) là ở
đây được gọi là bộ Tẩy Trừ Chướng Ngại (Papañcasūdani), mặc dù có chú
giải chỉ đặt tên đơn thuần là tên của Chánh Tạng với từ'atthakathā' nối
phía sau.[40]
Ta hãy xét chi tiết các quan sát trên theo thứ tự ngược lại.
Thuật
ngữ aṭṭhakathā ngày nay được sử dụng chủ yếu để tham
chiếu đến các chú giải, và 'chú giải' là từ nói chung là dịch phẩm.[41] Vì vậy,
khi ngài Bodhi đề cập đến Majjhima Nikāya Aṭṭhakathā, ta nên hiểu là "Chú Giải của Trung Bộ” và ta có thể thấy từ
bảng trên rằng chú giải này gọi là bộ Tẩy Trừ Chướng Ngại (Papañcasūdani). Tuy nhiên, ngài Rahula chỉ ra rằng
Từ aṭṭhakathā, trong thời gian
đầu khi thành Anurādhapura[42] được xây dựng, có một ý nghĩa rộng hơn so với
hiện nay. Ngày nay nó chỉ có nghĩa là Chú Giải Pāḷi trên Tam Tạng (Tipiṭaka).
Nhưng trong thời đại Anuradhapura… vốn chỉ có hai thể tài văn học: Pāḷi,
nghĩa là các bản văn của Tam Tạng (Tipiṭaka), và Aṭṭhakathābao
gồm tất cả các tác phẩm văn học khác… (xvii-xviii, xem Norman 174-175)
Ngài Rahula tiếp tục
liệt kê một số tác phẩm có chữ aṭṭhakathā trong tiêu đề mà không phải là
chú giải, vì vậy ta phải xem xét thận trọng khi thuật ngữ này không được kết
nối với một trong các tên tác phẩm chuẩn từ Tam Tạng(Tipiṭaka).
Đối với ngài Buddhaghosa
và Thanh Tịnh Đạo (Visuddhimagga), ngài và tác phẩm này hầu như gắn liền với
‘chú giải’ về Chánh Tạng Pāli. Hinüber tóm tắt việc này như sau: "Các chú
giải về Tam Tạng được hiểu là cách giải thích chính thống hiện nay ở
Mahāvihāra[43] tại Anurādhapura và được lập theo Thanh Tịnh Đạo (Visuddhimagga) của ngài Buddhaghosa" (100).[44] Tác phẩm
này không chỉ là chú giải, mà Collins còn chỉ ra "thời điểm sớm nhất mà ta
biết được Chánh Tạng có dạng cụ thể cuối cùng như đang có ngày này là từ thời
Buddhaghosa."(76-77).[45] Để xác minh ý kiến này, Norman quan sát rằng
"Theo nguyên tắc chung, ta có thể thấy rằng khi một phần của một chánh văn
đã được chú giải, sau đó các từ kinh điển lại hiện diện trong đoạn ghi chú và
trong những đoạn giải thích từ thì việc thay đổi rất khó có thể xảy
ra"(190). Và trong khi ông tin rằng "Chánh Tạng rất có thể là đã rất
khó thâm nhập trước thời kì của ngài Buddhaghosa", quan sát của ông về vai
trò của chú giải dẫn ông đến kết luận là "hình thức của Chánh Tạng
Theravāda, cũng như các bản văn trong đó, được ấn định dựa vào thông tin mà ngài Buddhaghosa cung cấp" (nhấn
mạnh thêm, 191). Ngài Rahula sử dụng cùng một cách nói về sự ấn định này khi
ông quan sát:
Mặc dù có bằng chứng chứng tỏ sự phát triển của
các bản kinh Pāli trong những thế kỷ đầu của Phật giáo tại Ấn Độ và Tích Lan,
nhưng không có lý do gì để nghĩ rằng sự phát triển đó đã ngừng lại và các bản
văn cuối cùng đã được ấn định trong thế kỷ thứ V Tây Lịch, khi mà các Chú Giải
Tam Tạng tiếng Sinhala[46] được Buddhaghosa dịch sang tiếng Pāḷi. (xix)
Rõ ràng như vậy, ta cần
phải hiểu thêm về Buddhaghosa và công việc của ngài.
Ta
biết rất ít về nhân vật Bhadantācariya Buddhaghosa. Hầu hết các thông tin ta có
về ngài có từ các nguồn chưa được xác minh. Ta biết rằng ngài đến Sri Lanka từ
Ấn Độ vào đầu thế kỷ thứ năm Tây Lịch để dịch các chú giải tiếng Sinhala hiện
có sang Pāli. Bộ Đại Sử (Mahāvamsa)
của Sri Lanka cho rằng những
người theo Theravāda ở Ấn Độ đã làm mất các tác phẩm chú giải nơi đó và do đó
ngài Buddhaghosa đã được cử đến Sri Lanka để hoàn trả các bản chú giải tiếng
Sinhala về ngôn ngữ mà Phật tử ở khắp mọi nơi đều có thể được hiểu (Ñāṇamoli
xxviii)[47]. Ñāṇamoli cho thấy rằng những người theo Theravāda ở cả Ấn Độ và
Sri Lanka nghĩ rằng họ có thể so bì tốt hơn với sự gia tăng của các bản văn
Phật Giáo của các hệ phái khác trong tiếng Sanskrit nếu họ có một hệ thống chú
giải chung nhất bằng Pāli tương thích với Tam Tạng Pāli mà họ đang bảo tồn
(xxviii). Người Lanka Sri có một số lượng lớn các chú giải bằng tiếng Sinhala,
ít nhất một số trong đó đã được truyền tụng là được dịch bởi con trai (hoặc em
trai) vua Asoka là Mahinda khi ông đưa Phật giáo Sri Lanka theo yêu cầu của đức
vua trong thế kỷ 3 Tây Lịch (Malalasekera 23, Norman 197). Trong tác phẩm của
mình[48], Buddhaghosa viết rằng:
[Giờ đây tôi sẽ viết] các chú giải. . . được
tuyết thuyết chi tiết bởi Đức Phật và các môn đồ của Ngài [tức là Trưởng Lão Xá
Lợi Phất và các vị thuyết những bài khác trong Tạng Kinh] – chú giải ban đầu
được truyền miệng [trong kì kết tập thứ nhất] và sau đó được trùng tụng [vào kí
kết tập thứ hai và thứ ba], và đã được mang đến đảo Sīhala (Tích Lan) bởi các
vị Đại A La Hán Mahinda và kết xuất vào dịch sang tiếng địa phương Sīhala để
tiện cho người dân đảo đọc –, và từ chú giải đó tôi sẽ dịch lại từ tiếng Sīhala
sang ngôn ngữ phù hợp với kinh điển[49] đồng thời được sàng lọc và hiệu chỉnh
lại các thiếu sót. Không chệch hướng từ khởi điểm của các trưởng lão tại Đại
Tự… và loại bỏ các đoạn lặp lại không cần thiết, tôi sẽ làm cho rõ nghĩa nhằm
hài lòng thiện tín và góp phần vào sự lưu truyền lâu dài của Giáo Pháp. (Lời
trong dấu ngoặc vuông là của Ñāṇamoli xxxi)[50]
Quan điểm truyền thống
này, tuy vậy, chứa nhiều điểm không thể kiểm chứng được.
Mặc
dù Ñāṇamoli tuyên bố rằng một "lượng lớn" các chú giải mà Buddhaghosa
đã phải xử lý "chắc chắn là có kể từ thời Đức Phật" (xxxii), các học
giả khác lại thận trọng hơn. Goonesekere xem xét rằng
rất có khả năng rằng các vấn đề sâu sắc nào đó
trong giáo pháp và các thuật ngữ mơ hồ là chủ đề thảo luận tại thời điểm của ký
kết tập đầu tiên và các cách luận giải và ý nghĩa cụ thể có do sự đồng thuận
khi đó. Những giải thích này sẽ hình thành cơ sở cho các chú giải lần sau. (7)
Và bà phỏng đoán rằng
"Những chú giải được cho là Mahinda đã mang đến Tích Lan cùng với Chánh
Tạng có thể bao gồm cả những giải thích đã được nêu tại kỳ kết tập thứ ba vừa
mới kết thúc" (7). Về ngôn ngữ của các chú giải được đưa đến Sri Lanka,
Norman cho ta biết rằng: "Không có bằng chứng về ngôn ngữ của những chú
giải được cho là đã được Mahinda mang tới Sri Lanka" (198). Tuy nhiên,
"Có bằng chứng cho sự khác biệt về ngôn ngữ địa phương trong chú giải thời
kì đầu" (199), có thể giải thích cho nhu cầu cần dịch lại nó: "Việc
các nguồn chú giải hiện có vốn không tương đồng có thể sẽ dẫn đến việc phải
thống nhất chúng lại, và đồng thời làm cho chúng dễ hiểu hơn với các tỳ khưu
Sinhala bằng cách dịch nó sang ngôn ngữ địa phương"(202)[51]. Và "Bởi
vì đó là ngôn ngữ địa phương nên nó sẽ có thể được bổ sung dễ dàng" (202).
Những
chú giải mà Buddhaghosa đã có trước đó, cũng như những chú giải mà ông đã viết
lại sau này, vốn chứa nhiều thông tin về xã hội lúc chúng được viết và cập
nhật. Ngài Rahula gọi các bản này là "một nguồn đáng tin cậy và đa dạng
các yếu tố cho việc tái thiết lịch sử Phật giáo ở Tích Lan từ thế kỷ thứ III
trước Công Nguyên[52] dho đến thế kỷ thứ V Công Nguyên"(xxiv). Và điều này
thực sự là chính xác với những gì Adikaram đã nếu trong Lịch Sử Buổi Đầu Của Phật Giáo Ở Tích Lan, một tài liệu lịch sử chủ yếu dựa trên các bằng
chứng trong các chú giải. Tuy nhiên, sự phong phú về màu sắc địa phương này
cũng cho thấy sự thật rằng các chú giải ít ra không còn ở dạng nguyên bản như
khi đến Sri Lanka, bất kể là điều gì thực sự đã có từ thời Đức Phật. Như vậy
Goonesekere chỉ ra:
Thời kỳ lớn mạnh và phát triển [của các chú giải]
có thể được xác định từ các chi tiết và các sự kiện lịch sử trong chú giải. Vì
các sự kiện đã xảy ra trước thời ngài Buddhaghosa nên ta có thể giả định rằng
sự kiện sau cùng được ghi lại trong các chú giải của ngài cũng có trong nguyên
bản tiếng Sinhala[53]. Dựa vào những câu chuyện về Ấn Độ có niên đại… vào thời
gian từ thời vua Asoka vào thế kỷ thứ III trước Tây Lịch trở về trước, ta có
thể nhờ vào đây mà xác chứng được truyền thuyết cho rằng những chú giải này đã
được mang đến Tích Lan bởi ngài Mahinda. Các sự kiện sau đó chủ yếu xảy ra ở
Tích Lan. Trong các vương triều Tích Lan đã trị vì, sự kiện được nói đến gần
nhất là ở thời Vasabha (67-111 AC)[54]… Tuy nhiên, không thể kết luận rằng các
chú giải này có dạng như hiện nay, vì có các dẫn chứng khác về các sự kiện và
con người sau thời này, chẳng hạn như Rudradāman (thế kỷ thứ II Tây Lịch)[55]
và Mahāsena (275-301Tây Lịch)[56]. (11)
Bây giờ chúng ta đã biết
được một số ý nghĩa về nguồn gốc của các chú giải, ta hãy khảo sát một cách
ngắn gọn bản chất nội dung của chúng.
Norman
nói rằng "Ta có thể giả định rằng hình thức đầu tiên của chú giải đơn giản
chỉ là lời giải nghĩa từ này bằng từ khác" (195). Những chú giải có bằng
chứng trực tiếp đầu tiên đã được đưa vào Chánh Tạng. Malalasekere chỉ ra về các
bình giải phát triển này như sau:
Khi mà các bản văn sau đó vủa Chánh Tạng được
biên soạn, sắp xếp, và chỉnh sửa, một trong số các bình giải đã có chỗ đứng
trong các Tạng và trụ vững ở đó. Chẳng hạn, ta có Kinh
Phúng Tụng (Saṅgīti-suttanta)[57] trongTrường Bộ
(Dīgha-Nikāya )… hình thành một cuộc vấn đạo có các thuật ngữ
và các đoạn mang tính chất giải thích. Tương tự là Kinh Phân biệt về Sự
thật (Sacca-vibhaṅga)[58]… cũng như Kinh Mật hoàn
(Madhu-piṇḍika-sutta)[59]… trong Trung Bộ (Majjhima-Nikāya)…
[Ta cũng] có một chú giải cũ nằm trong Luật (Vinaya) và Bộ
Tập yếu (Parivāra) được thêm vào như là một phần bản văn để thẩm xét
bổ sung cho toàn bộ tạng. Sau đó, có bộ Thích Nghĩa (Niddesa) là
một bộ sách chú giải về các đoạn trong Kinh Tập (Sutta-nipāta); và
có những đoạn rõ ràng mang tính chú giải nằm rải rác trong các bộ kinh Nikāya. (89)
Những chú giải đầu phần
lớn là liệt kê các từ đồng nghĩa, và Norman nhấn mạnh chi tiết rằng "Bất
cứ khi nào một từ khó xuất hiện trong bản văn thì một lời giải thích được đưa
ra cho từng từ một[60]… ngay cả nếu các từ này lặp lại ở các câu
kệ kế tiếp", điều này cũng nhắc ta về tính phổ biến của việc khẩu truyền
(196). Tuy nhiên ông có rằng ví dụ như bộ Thích Nghĩa (Niddesa) "không chỉ đơn thuần là một danh sách
các từ đồng nghĩa" và còn bao gồm "những đoạn bình giải", nhưng
"nó… không phải là một cấu trúc hệ thống các giải thích, mà chỉ là một
loạt các cụm từ khác nhau, nhằm giải nghĩa từng từ, không chỉ riêng trong Kinh Tập (Sutta-nipāta), mà còn trong bất kỳ bản văn nào
khác"(197).
Trong
số các bản chú giải bắt đầu bằng lời của ngài Buddhaghosa, Hinüber cho rằng
việc "giải nghĩa của những từ đơn lẻ" diễn ra quá thường xuyên và các
bộ này thường "đọc giống như trích ra từ từ điển" (116). Mặc dù may
mắn chú giải về Luật (Vinaya) được làm theo "phương pháp apubbapadavaṇṇanā… ‘giải thích từ chưa được giải thích’, giúp
tránh lặp đi lặp lại, nên chú giải trở nên ngắn hơn dần về phía
cuối"(106). Tuy nhiên, khi so sánh chú giải của bốn bộ Nikāya chính, lại
có sự lặp đi lặp lại, và Hinüber ghi chú rằng "có vẻ rõ ràng rằng những
người biên tập sử dụng lá cọ để dời chỗ cho một số từ khóa nào đó[61]" để
"đảm bảo rằng tất cả đều chứa các thông tin tương tự với từ ngữ thống nhất"
(120-121)[62]. Các bản này chứa có các đoạn lặp đi lặp lại nhiều hơn cả các mục
của "bách khoa toàn thư", và "Việc lặp đi lặp lại chỉ có ý
nghĩa, nếu các đoạn văn bản riêng lẻ vốn ban đầu được hiểu như là các thành
phần rời rạc có thể được thêm vào bất cứ nơi nào cần thiết" (120). Các bài
chú giải của Nikāya cũng thường hướng độc giả đến Thanh Tịnh Đạo (Visuddhimagga) để giải thích.
Trong chú giải của Nikāya, các bản văn được cố
tình lặp lại để làm cho mỗi một chú giải, cùng với [Thanh Tịnh Đạo], trở
thành một bộ ba duy nhất[63]. Theo cách này, chúng như bốn trụ cột[64] khác
nhau của tính chính thống trên được thiết lập trên cùng một nền tảng vững chắc
của [Thanh Tịnh Đạo]. (121)
Chú giải của Luật
"mặt khác, tránh việc tương đồng và hướng người đọc đến các phần khác của
cùng một chú giải" cho nên
Cấu trúc tổng thể bao [gồm chú giải Luật], chú
giải bốn bộ Nikāya và đoán chừng cả [Thanh Tịnh Đạo] đã được hình thành từ thời
Buddhaghosa, người mà dường như đã đã thuần thục việc ghi nhớ đồng thời công
trình vĩ đại và đáng ngưỡng mộ này. (122)
Ai đó có thể tự hỏi liệu
điều này có phụ thuộc vào Thanh Tịnh Đạo (Visuddhimagga) không. Với việc thiếu bản dịch phổ biến sẵn có của Thanh
Tịnh Đạo cho đến khi bản của ngài Ñāṇamoli đã được xuất bản vào năm 1956[65] đã
giải quyết được sự thiếu sót trầm kha các bản dịch tiếng Anh của chú giải bốn
bộ Nikāya chính. Mặc dù với một nửa thế kỷ kể từ kỳ xuất bản đó, có lẽ nó chỉ
vì tính chất bách khoa toàn thư của chính Thanh Tịnh Đạo (Visuddhimagga) mà bản dịch của các chú giải khác dường
như không còn cần thiết.
Như
chúng ta đã thấy từ biểu đồ trên, nhiều tác phẩm được cho là của ngài
Buddhaghosa theo truyền thống. Tuy nhiên, các học giả hiện đại phần lớn đồng ý
rằng thực sự là chỉ có Thanh Tịnh Đạo và bốn chú giải Nikāya mới có thể chắc
chắn là của ngài (Hinüber 102). Ngay cả như vậy, có thể là các tác phẩm khác
Thanh Tịnh Đạo có thể được viết ra dưới sự chỉ đạo của ngài thay vì trực tiếp
ngài viết (xem thảo luận của tôi ở trên và bình luận của Hinüber về mỗi tác
phẩm chú giải, 100-154). Chú giải sư[66] quan trọng nhất kế đến là Dhammapāla,
có bộThắng Nghĩa Đăng
(Paramatthadīpanī) chứa
các chú giải về bảy tác phẩm trong Tiểu Bộ (Khuddaka Nikāya) (xem biểu đồ). Vẫn chưa rõ ông là người Nam Ấn
Độ hay Sri Lanka - mặc dù ông đã sử dụng tác phẩm của Buddhaghosa và cũng tuyên
bố trung thành với chính thống của Mahāvihāra, dù sao ông vẫn xét lại
phần Tiểu Bộ (Khuddaka
Nikāya) thay vì dùng bản hiện có
tại Mahāvihāra, việc này được chứng minh bởi thực tế tác phẩm của ngài không
khớp với thứ tự của văn bản của truyền thống đó (Hinüber 137), (và thậm chí có
thể thấy ngay trên biểu đồ bên trên). Ngài dường như đã có quyền tiếp cận những
chú giải Sinhala mà Buddhaghosa đã dựa trên đó để viết các tác phẩm của mình,
và cũng có thể ngài đã làm việc với các chú giải có ở miền Nam Ấn Độ trong vùng
Tamil (hoặc Dravidian) (Adikaram 9, Malalasekere 8). Mặc dù tất cả cho thấy
“một giai đoạn tiến triển của các bình luận tương ứng" nhưng các chú giải
của ngài đã "rõ ràng là phỏng theo các tác phẩm của Buddhaghosa" (138
Hinüber, 137). Tuy nhiên, cả Dhammapala cũng như bất kỳ người biên soạn chú
giải nào khác cho Chánh Tạng có được ảnh hưởng lớn như Buddhaghosa. Tất cả họ
đều bị ngài ảnh hưởng là lấy ngài làm gương. Malalasekere nhấn mạnh rằng sự
phát triển của Buddhaghosa cho ngôn ngữ Pāḷi:
Thay vì cách diễn đạt cổ xưa, bóng bẩy, đôi lúc
ngắt ngang mạch Kinh (Sutta), mà hầu hết là ý tại ngôn ngoại,
Buddhaghosa thường phải dò dẫm tìm từ để diễn đạt ý kiến và ý tưởng rồi sau đó
lại phải nghĩ đến cách truyền đạt cho người đọc tiếng địa phương này hoặc địa
phương khác, nên ông đã để lại trong nhiều tác phẩm của mình một vốn ngôn ngữ
giàu từ vựng, sử dụng linh động, có cấu trúc trang trọng, thường để giải thích
cho các đoạn dài dòng khó hiểu, và diễn đạt rõ ràng mọi ý để người ta có thể
hiểu được.[67] (103)
Về khoản này, không phải
chỉ có nội dung của Thanh
Tịnh Đạo và các chú giải
khác của Buddhaghosa đã trở thành chuẩn mực cho Phật Giáo Theravāda, mà phong
cách của chúng đã định hình bản chất cho toàn bộ văn xuôi Pāḷi học theo.
Các
bài chú giải này giúp cho ta ngày nay? Phải chăng chúng là một chỉ dẫn tốt để
hiểu các bản văn gốc, hay chỉ đơn thuần phản ánh những tư tưởng hậu kỳ của một
trường phái cụ thể? Các chú giải chắc chắn đưa ra những ý tưởng không có trong
các bản văn gốc. Ñāṇamoli mô tả điều này như là một sự phát triển của các xu
hướng bắt đầu bởi các bản văn Vi Diệu Pháp (Abhidhamma), với "những phát
triển mới" chủ yếu là "lộ trình tâm (citta-vithi)"[68], "các pháp chế định (paññatti)"[69], và "cách xác định ý nghĩa của một pháp gồm phận
sự, thành tựu và nhân cận"[70], cũng như các lý thuyết về
"sát-na" (khaṇa)[71] và "thực tính" (sabhāva)[72]; có đánh giá cho rằng đây là trung tâm của sự phát triển của
tư tưởng Phật Giáo (xlii). Norman tóm lược những ưu điểm của những chú giải
gồm, đầu tiên, "đôi khi chúng giải thích một điều gì đó để ta không thể
hiểu khác đi", ví dụ, từ đồng nghĩa có thể giúp định hướng dịch thuật cho
một từ không biết khác (217). Thứ hai, chúng "đôi khi chứa những cách giải
thích tốt hơn so với những gì trong các bản văn thuộc Chánh Tạng mà ta có"
(217). Vì chúng đôi khi được ghi lại độc lập với những bản khác (208), các đoạn
được suy biến trong khi chuyển tải từ Chánh Tạng có thể giúp các chú giải dễ
hiểu hơn. Và thứ ba, "các chú giải cho ta thấy tư tưởng Phật Giáo đã phát
triển kể từ thời các bản văn Chánh Tạng đang bình luận được sáng tác"
(218). Mặt khác, có những điểm hạn chế, đầu tiên,
Đôi khi làm mất đi ý nghĩa truyền thống và chú
giải sư tái sắp xếp để đưa ra một vài giải thích, toàn bộ đều không chắc chắn,
và toàn bộ đều rất khó hiểu. Điều này tạo ra nghịch lý quen thuộc[73]:
"Tôi có thể hiểu được các bản văn, nhưng không hiểu chú giải". (218)
Thứ hai, Norman nói rằng
"đôi khi những lời giải thích có tính chất lòng vòng, ví dụ như 'Trí có
nghĩa là có trí tuệ’, và chỉ dễ hiểu nếu đã được biết ý nghĩa rồi" (218).
Thứ ba: "Đôi khi những chú giải là sai" (218). Đối với điều này, ông
đưa ra ví dụ về không có từ nguyên[74] và giải thích rõ ràng dựa trên tiếng địa
phương đã làm biến đổi các từ được dùng trong quá trình truyền Chánh Tạng
(210-214). Và cuối cùng,
Đôi khi những lời giải thích trong chú giải đã có
một tác động ngấm ngầm lên các chánh văn, tức là những gì ban đầu được viết
trong bài chú giải đôi khi được đưa vào trong chánh văn (như "chú
thích"), hoặc đã có một tác động lên các từ trong chánh văn, trong đó
chánh văn đã bị thay đổi để phù hợp với ý nghĩa được đưa ra trong chú giải.
(218)
Với ý cuối cùng này, ông
trích dẫn một ví dụ về một cách phân 3 của các hiệu lực của nghiệp (kamma) ("... ở đây và bây giờ, hoặc trong đời kế, hoặc sau
đó")[75] được tìm thấy trong một số bản văn Chánh Tạng, nhưng trong thực
tế là bắt nguồn từ một hiểu lầm của cách phân hai ("... ở đây và bây giờ,
hoặc trong các đời kế tiếp sau đó") khi một trình bày xác đáng bị hiểu sai
và "được sửa lại" ở một phần trong chú giải, và sau đó được viết lại
vào Chánh Tạng để thống nhất (218-219).
Tuy
nhiên rõ ràng có nhiều lợi ích thu được nếu sử dụng cẩn thận các chú giải, đặc
biệt là nếu ta muốn hiểu truyền thống của Theravāda đã phát triển và dựa trên
đây. Trong thực tế, liên quan đến việc hiểu biết về Phật giáo Theravāda,
thì Thanh Tịnh Đạo nên được coi là quan trọng ngang với các
bản văn Chánh Tạng khác. Nếu bạn muốn nghiên cứu thêm nữa về những chú giải,
tôi đã cung cấp một phụ lục của bản dịch tiếng Anh có sẵn dựa trên khảo sát
Hinüber. Và tất nhiên, nếu mục tiêu của bạn là để biết thêm về nền tảng và phát
triển của những chú giải, phần "Các Tác Phẩm Tham Chiếu" sẽ cung cấp
một danh sách nhiều nguồn tham khảo có giá trị cho người mới bắt đầu. Hy vọng
rằng, khi bạn đi đọc qua các tài liệu tham khảo về "chú giải", bạn sẽ
không còn bị nhầm lẫn như tôi là khi bắt đầu đọc Chánh Tạng.
Phụ lục: Các bản dịch
tiếng Anh có sẵn của các Chú Giải
Sau đây là danh sách
tương tự từ bảng danh sách chú giải ở trên nhưng với bản dịch tiếng Anh của các
Chú Giải (nhưng không có các tác phẩm Chánh Tạng) như đã nêu trong Hinüber
100-153. Có thể có nhiều bản dịch, như sách Hinüber đã được xuất bản vào năm
1996. Tôi đã không làm một cuộc khảo sát độc lập cho bản dịch này, trừ trường
hợp Hinüber nói là bản văn đang "chuẩn bị", thì khi đó tôi mới tìm
trong các bản dịch đã công bố.[76] Những mục này được đánh dấu bằng dấu hoa
thị. Hinüber không cho biết nhà xuất bản trong danh sách của mình, nhưng ta có
thể đoán rằng nó là của Pali Text Society trong hầu hết các trường hợp. Đối
với Thanh Tịnh Đạo
(Visuddhimagga), tôi chỉ lặp lại các
mục từ "Các Tác Phẩm Tham Chiếu".
Visuddhimagga / Buddhaghosa
Ñāṇamoli, Bhikku.
trans. The Path of Purification
(Visuddhimagga). 1956. By
Bhadantācariya Buddhaghosa. Onalaska: BPS Pariyatti Editions, 1999.
Vinaya
Vinaya Piṭaka / Samantapāsādika / Attributed to Buddhaghosa
Jayawickrama, N.A.
trans. The Inception of
Discipline and the Vinaya Nidāna being a Translation and Edition of the
Bāhiranidānai. London: 1962.
Patimokkha / Kaṅkhāvitaraṇī / Attributed to Buddhaghosa
No English translation
before 1996.
Sutta
Dīgha Nikāya / Sumaṅgalavilāsinī / Buddhaghosa
Majjhima Nikāya / Papañcasūdani / Buddhaghosa
Saṃyutta Nikāya / Sāratthapakāsinī / Buddhaghosa
Aṅguttara Nikāya / Manorathapurāṇī / Buddhaghosa
No English translation
before 1996.
Khuddaka Nikāya
- Khuddakapāṭha / Paramatthajotikā I / Attributed to Buddhaghosa
Ñāṇamoli, trans. The Minor Readings – The Illustrator of the
Ultimate Meaning. London: 1960.
(Contains both the Canonical text and Commentary.)
- Dhammapada / Dhammapadaṭṭhakathā / Attributed to Buddhaghosa
Carter, J.R. and M.
Palihawadana trans. The
Dhammapada. Oxford: 1987.
(Contains both the Canonical text and Commentary.)
- Udāna / Paramatthadīpanī / Dhammapāla
Masefield, P.
trans. The Udāna Commentary. 2 vols. Oxford: 1994-1995.
- Itivuttaka / Paramatthadīpanī / Dhammapāla
Masefield, P.
trans. The Commentary on the
Itivuttaka. Oxford: Pali Text
Society, 2009.*
- Suttanipāta / Paramatthajotikā II / Attributed to Buddhaghosa
No English translation
before 1996.
- Vimānavatthu / Paramatthadīpanī / Dhammapāla
Masefield, P.
trans. Elucidation of the
Intrinsic Meaning so Named the Commentary on the Vimāna-Stories. London: 1980.
- Petavatthu / Paramatthadīpanī / Dhammapāla
Masefield, P.
trans. Elucidation of the
Intrinsic Meaning so Named the Commentary on the Peta-Stories. London: 1980.
- Theragātha / Paramatthadīpanī / Dhammapāla
No English translation
before 1996.
- Therigātha / Paramatthadīpanī / Dhammapāla
Masefield, P.
trans. The Commentary on the
Itivuttaka. Oxford: Pali Text
Society, 2009.*
- Jātaka / Jātakahakatha / Attributed to Buddhaghosa
- Niddesa / Saddhammapajjotika / Upasena
- Paṭisambhidāmagga / Saddhammappakāsinī / Mahanama
- Apadāna / Visuddhajanavilāsinī / Not known
No English translation before 1996.
- Buddhavaṃsa / Madhuratthavilāsinī / Buddhadatta
Horner, I.B.
trans. The Clarifier of the
Sweet Meaning (Madhuratthavilāsinī). London: 1978.
- Cariyāpiṭaka / Paramatthadīpanī / Dhammapāla
No English translation
before 1996.
Abhidhamma
Dhammasaṅgaṇī / Atthasālinī / Attributed to Buddhaghosa
Rhys Davids, C.A.F., ed.
and rev. and Pe Maung Tin, trans. The Expositor (Atthasālinī). Oxford: 1921. (Hinüber warns that “This translation must be
used with the utmost caution.” 149)
Vibhaṅga / Sammohavinodanī / Attributed to Buddhaghosa
Ñāṇamoli, trans. L.
Cousins, Nyanaponika, and C.M.M. Shaw, eds. The Dispeller of Delusion (Sammohavinodanī). 2 vols. London: 1987-1991.
Kathāvatthu / Pañcappakaraṇaṭṭhakathā / Attributed to
Buddhaghosa
Law, B.C., trans. The Debates Commentary. London: 1940.
Puggalapaññatti / Pañcappakaraṇaṭṭhakathā / Attributed to
Buddhaghosa
Dhātukathā / Pañcappakaraṇaṭṭhakathā / Attributed to
Buddhaghosa
Yamaka / Pañcappakaraṇaṭṭhakathā /
Attributed to Buddhaghosa
Paṭṭhāna / Pañcappakaraṇaṭṭhakathā / Attributed to
Buddhaghosa
No English translation
before 1996.
Các Tác Phẩm Tham Chiếu
Adikaram, E.W. Early History of Buddhism in Ceylon. 1946. Dehiwala: Buddhist Cultural Centre,
2009.
Bodhi, Bhikkhu, ed. and
trans. The Middle Length
Discourses of the Buddha: A Translation of the Majjhima Nikāya. 4th ed. 1995. Original translation
Bhikkhu Ñāṇamoli. Somerville: Wisdom Publications, 2009.
Collins, Stephen. “On
the Very Idea of the Pali Canon.” Journal of the Pali Text Society. 15 (1990): 89-126. Rpt. in Buddhism: Critical Concepts in Religious
Studies. Ed. Paul Williams. Vol.
1. New York: Routledge, 2005. 72-95.
Goonesekere, L.R. Buddhist Commentarial Literature (The Wheel
Publication No. 113). BPS
Online Edition. Kandy: Buddhist Publication Society, 2008.
Hinüber, Oskar
von. A Handbook of Pāli
Literature. 1996. New Delhi:
Munishiram Manoharlal Publishers, 2008.
Kalupahana, David
J. A History of Buddhist
Philosophy: Continuities and Discontinuities. 1992. Delhi: Motilal Banarsidass, 1994.
Malalasekera, G.P. The Pāli Literature of Ceylon. 1928. Columbo: M.D. Gunasena & Co., 1958.
Ñāṇamoli, Bhikku.
Introduction. The Path of Purification
(Visuddhimagga). 1956. By
Bhadantācariya Buddhaghosa. Trans. Ñāṇamoli. Onalaska: BPS Pariyatti Editions,
1999. xxiii-xlx.
Norman, K.R. A Philological Approach to Buddhism. 2nd ed. 1997.Lancaster: Pali Text
Society, 2006.
Rahula, Walpola. History of Buddhism in Celyon. 2nd ed. 1956. Columbo: M.D. Gunasena
& Co., 1966.
Warder, A.K. Indian Buddhism. 3rd ed. 1970. Delhi: Motilal
Banarsidass, 2008.
---. Introduction to Pali. 3rd ed. 1963. Bristol: Pali Text
Society, 2010.
Woodward, F.L.
trans. The Book of the Gradual
Sayings (Aṅguttara-Nikāyā) or More-Numbered Suttas: Volume 1 (Ones, Twos,
Threes). 1932. Delhi: Motilal
Banarsidass, 2006.
Ghi chú:
[1] Phụ Chú Giải hay Sớ
giải (Tīkā) là phần giải thích thêm cho những điểm cùa Chánh Tạng mà Chú Giải
chưa để cập, hoặc là làm rõ nghĩa thêm các Chú Giải. Trong Tīkā còn chia thêm
chẳng hạn như mūlaṭīkā (Căn Bản Sớ Giải) và anuṭīkā (Hậu Sớ Giải). Ở đây vì
trong nguyên tác, tác giả dùng chữ commentaries, sub-commentaries,
sub-sub-commentaries (và dấu “…”) để diễn tả ý giải thích theo nhiều lớp ý
nghĩa vì vậy dịch ý chỗ này là Phụ Chú Giải và Phụ Phụ Chú Giải. (ND)
[2] Xem các phần kết chú
(endnotes) từ đầu đến cuối, và Danh Sách Chữ Viết Tắt ở tr.1159.
[3] Sử dụng nguyên chữ
của bản Anh. (ND)
[4] Xem các phần cước
chú (footnotes) từ đầu đến cuối.
[5] Và cả các bản dịch
khác nữa. (ND)
[6] Nguyên văn: CE, tức
là Common Era, Hán dịch là Công Nguyên (公元) viết tắt từ chữ Công
Lịch Kỉ Nguyên (公曆紀元). Tác giả dùng thay cho từ AD, tức là Anno
Domini trong tiếng Latin Trung Cổ, tiếng Anh là “in the year of our Lord” (vào
năm của Chúa chúng ta), để tránh mang màu sắc Cơ Đốc Giáo. Tuy nhiên, trong tiếng
Việt, Công Lịch Kỷ Nguyên (kỷ nguyên dùng lịch chung) vẫn thường bị hiểu thành
Công Giáo Kỷ Nguyên (kỷ nguyên của Công Giáo) nên ở đây dịch là Tây Lịch để
tránh nhầm lẫn. (ND)
[7] Danh sách này sẽ
được tham chiếu đến nhiều lần ở các đoạn sau. Trong nguyên tác, tác giả tham
chiếu bằng số trang, ở đây chỉ ghi tham chiếu đến bảng. (ND)
[8] Samantapāsādika:
Samanta là tất cả, toàn bộ; pāsādika là vừa lòng, đáng yêu, đáng thương mến.
Hán dịch là Nhất Thiết Thiện Kiến (一切善見). Hán dịch có bản tương
đương đã được dịch sang Tiếng Việt gọi là Chú Giải Luật Thiện Kiến. Dịch
sát nghĩa là Toàn Thiện. (ND)
[9] Pātimokkha: Hán âm
là Ba La Đề Mộc Xoa (波罗提木叉), có chỗ lại dịch nghĩa
là Biệt Giải Thoát (别解脱), dịch ý nội dung là Giới Điều (戒条) hay Giới Bổn (戒本).
Trong bản Việt dịch thuật ngữ này được giữ nguyên và để rõ nghĩa hơn nên gọi là
Giới Bổn Pātimokkha. Ở đây vì đã ghi chú kèm tên theo Pāḷi nên tên các tác phẩm
đều dịch nghĩa ra. Vì vậy, chọn cách dịch Biệt Giải Thoát làm tên. (ND)
[10] Kaṅkhāvitaraṇī: Kaṅkhā
là ngờ vực, không chắc chắn, lừng chừng; vitaraṇa là sự phân phát, vượt qua,
thoát qua khỏi. Hán dịch là độ thoát nghi hoặc (渡脱疑惑). Ở đây dịch là dễ hiểu
và sát nghĩa là Thoát Nghi. (ND)
[11] Sumaṅgalavilāsinī:
su là tiền trí từ, có nghĩa là tốt trọn vẹn, vui thích, đẹp; maṅgala là điềm
lành, vận may, sang trọng, vui vẻ…; vilāsinī là người nữ, hoặc sáng ra, diễn ra
lộng lẫy, sở hữu nét duyên dáng hoặc ân sủng, duyên dáng. Hán dịch là Cát Tường
Duyệt Ý (吉祥悅意). Anh dịch là The Splendor of the Highest Blessing
(Sự Rực Rỡ Của Điều Lành Tối Thượng). Dịch ngắn lại là Cát Tường Minh. (ND)
[12] Papañcasūdani =
papañca + sudānī. Papañca là một từ khó diễn nghĩa, thường được biết tới với
các nghĩa như chướng ngại, hí luận, mê chấp, ảo giác, vọng tưởng; đa dạng hóa,
tăng nhanh; cụ thể hóa…; về chữ sūdana thì trong chú thích của bản Thanh Tịnh
Đạo tiếng Anh (The Path of Purification), ngài Ñānamoli ở ghi chú số 46, cho
đoạn 125, chương XI như sau: “Sūdana—“cleaning”: not in PED. See title of
Majjhima Nikáya Commentary. Another reading here is sodhana.”. Hán dịch là Phá
Trừ Nghi Chướng (破除疑障) hoặc Phá Xích Do Dự (破斥犹豫).
Anh dịch là Clarifier of Proliferation (Gạn Lọc Sự Tăng Nhanh). Ở đây dịch
trạng trọng là Tẩy Trừ Chướng Ngại. (ND)
[13] Sāratthapakāsinī:
sāra là cốt lõi, attha là ý nghĩa, pakāsi là trở nên thấy được, được biết đến,
sáng chói. Hán dịch là Hiển Dương Chân Nghĩa (显扬心义) hoặc Hiển Dương Chân Nghĩa (显扬真义). Anh dịch là The
Illustrator of Core Meaning (Làm Sáng Tỏ Ý Nghĩa Cốt Lõi). Ở đây dịch là Hiển Dương
Yếu Nghĩa. (ND)
[14] Manorathapurāṇī:
Manoratha là mong ước, ước muốn; purāṇī là xưa, cũ, già, hao mòn, đã dùng xài,
trước kia. Hán dịch là Mãn Túc Hy Cầu (滿足希求). Anh dịch là The Wish
Fulfiller (Điều Thỏa Mãn Mong Ước). Ở đây dịch là Mãn Túc Cầu. (ND)
[15] Paramatthajotika:
Parama là cao siêu, cao tột, cao quý, ưu tú, tột cùng, tối thắng; attha là
nghĩa; paramattha là ý nghĩa cao tột, paramatthasacca tức chỉ cho Chân Đế;
jotika là làm sáng tỏ. Hán dịch là Thắng Nghĩa Quang Minh (胜义光明). Anh dịch là The
Illustrator of Ultimate Meaning (Làm Rõ Về Nghĩa Tối Hậu). Ở đây dịch là Thắng
Nghĩa Quang. (ND)
[16] Udāna nghĩa đen là
phát biểu bằng cảm xúc. Ngài Minh Châu dịch là Phật Tự Thuyết. Ngài Tịnh Sự
dịch là Cảm Ngữ. Hán âm là ưu đà na (優陀那), dịch là tự thuyết
kinh (自說經), vô vấn tự thuyết (無問自說), cảm hứng ngữ (感興語). Anh dịch là Verses of
Uplift (Các Bài Kệ Hướng Thượng). Trong lời giới thiệu của bản Việt dịch, ngài
Minh Châu có ghi: “Kinh Udàna, được dịch là Phật tự thuyết kinh, nghĩa là những
kinh này đức Phật tự nói, do cảm xúc mạnh đột khởi, không ai thỉnh Phật
thuyết.” Ở đây dịch sát là Cảm Ngữ. (ND)
[17] Paramatthadīpanī:
Parama là cao siêu, cao tột, cao quý, ưu tú, tột cùng, tối thắng; attha là
nghĩa; paramattha là ý nghĩa cao tột, paramatthasacca tức chỉ cho Chân Đế; dīpa
là cây đèn. Hán dịch là Thắng Nghĩa Đăng (胜义灯) hoặc Chân Đế Đăng (真谛灯). Tuy nhiên, phần chú giải này có cả Thiên
Cung, Ngạ Quỷ… tức là Chế Định chứ không phải chỉ có Chân Đế nên ở đây dịch là
Thắng Nghĩa Đăng. (ND)
[18] Itivuttaka nghĩa là
được nói như vầy. Ngài Minh Châu dịch là Kinh Phật Thuyết Như Vậy. Ngài Tịnh Sự
dịch là Như Thị Thuyết. Hán âm là Nhất Trúc Đa (一筑多) hay Y Đế Vị Đa Già (伊帝渭多伽); dịch là Như Thị Ngữ Kinh (如是语经) hoặc là Bổn Sự (本事). Anh dịch là As It Was Said (Như Được Nói).
Trong lời giới thiệu của bản Việt dịch, ngài Minh Châu có ghi: “Tập kinh Phật
Thuyết Như Vậy (Itivuttaka), thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khudaka Nikaya), là một tập
hợp 112 bài kinh ngắn, có tựa đề bắt nguồn từ câu "Ðức Thế Tôn thuyết
giảng như vầy"” Trích Pāḷi làvuttañhetaṃ bhagavatā, vuttamarahatāti me sutaṃ. (Ngài Minh Châu dịch là “Ðiều này đã được
Thế Tôn nói đến, đã được bậc A-la-hán nói đến, và tôi đã được nghe”.) Ở đây
chọn cách dịch sát nghĩa và trang trọng là Như Thị Thuyết. (ND)
[19] Suttanipāta: Sutta
là Kinh, nipāta nghĩa đen là sự rớt xuốt, sự đi xuống, hoặc một phân từ không
thể phân chia. Ngài Minh Châu là Kinh Tập. Nhật dịch cũng là Kinh Tập (経集).
Anh dịch là Group of Discourses (Nhóm Các Bài Kinh) (ND)
[20] Jātaka = Jāta + ka.
Ngài Minh Châu dịch là Chuyện Tiền Thân. Các ngài Tịnh Sự, Bửu Chơn dịch là Bổn
Sanh. Hán âm là Đồ Đa Già (闍多迦), dịch là Bổn Sanh (本生).
Anh dịch là Stories of the Buddha's Former Birth (Các Câu Chuyện Đời Trước Của
Đức Phật). Dịch sát nghĩa là Bổn Sanh. (ND)
[21] Niddesa nghĩa đen
là mô tả, giảng giải phân tích. Ngài Minh Châu dịch là Nghĩa Tích. Hán dịch là
Thuyết Minh (說明), Tế Thuyết (細說), Quảng Thuyết (廣說), Miêu Thuật (描述), Giải Thích (解释), Nghĩa Thích (義釋). Ở đây chọn chữ dễ
hiểu và trang trọng là Thích Nghĩa. (ND)
[22] Saddhammapajjotika:
Saddhamma là giáo pháp chân chánh, pajjotika là ánh sáng hay cây đèn. Hán dịch
là Chánh Pháp Quang Minh (正法光明). Ở đây dịch là Chân Pháp Quang. (ND)
[23] Paṭisambhidāmagga:
Paṭisambhidā là thấu hiểu bằng cách phân tích, tri thức phân biệt sáng suốt;
magga là con đường, đạo lộ. Ngài Minh Châu dịch theo Hán là Vô Ngại Giải Đạo (無礙解道).
Ngài Chánh Thân dịch là Phân Tích Đạo. Anh dịch là The Path of Discrimination
(Đạo Lộ Của Sự Phân Biệt). Xét về sát nghĩa, xét về dễ hiểu nên chọn cách dịch
là Phân Tích Đạo. (ND)
[24] Saddhammappakāsinī:
Saddhamma là giáo pháp chân chánh, pakāsi là trở nên thấy được, được biết đến,
sáng chói. Dịch trang trọng là Hiển Dương Chân Pháp. (ND)
[25] Apadāna là tiểu sử
cuộc đời, huyền thoại. Ngài Minh Châu dịch là Sự Nghiệp Anh Hùng hay Thí Dụ
Kinh. Ngài Chánh Thân dịch là Thánh Nhân Kí Sự. Hán Âm là A Ba Đà Na (阿波陀那);
dịch là Thí Dụ (譬喻), Giáo Huấn Vật Ngữ (教訓物語),
Vĩ Nhân Truyện (伟人传), Truyện Thuyết (传说). Nội dung đề cập đến chuyện về các vị Toàn
Giác, Độc Giác, Trưởng Lão và Trưởng Lão Ni Thanh Văn là các bậc Thánh. Ký sự
theo tiếng Việt là lối văn ghi chép các việc xảy ra theo trật tự thời gian. Xét
sát nghĩa và các chuyện trong tác phẩm này cũng miêu tả theo trình tự thời gian
nên chọn cách dịch là Thánh Nhân Kí Sự. (ND)
[26]
Visuddhajanavilāsinī: visuddha là thanh tịnh, trong sạch; jana là người, người
nam; vilāsinī là người nữ, hoặc sáng ra, diễn ra lộng lẫy, sở hữu nét duyên
dáng hoặc ân sủng, duyên dáng. Hán dịch là Tịnh Sĩ Duyệt Ý (净士悦意). Dịch sát là Tịnh Nhân
Minh. (ND)
[27] Buddhavaṃsa: Buddha
là các vị Phật, vaṃsa là dòng dõi lưu truyền hay lịch sử. Hán dịch là Chư
Phật Sử (诸佛史) hay Phật Chủng Tính (佛种姓). Anh dịch là The
Chronicle of the Buddhas (Sử Ký Về Các Vị Phật). Ngài Bửu Chơn tóm lược gọi là
Chánh Giác Tông. Ngài Chánh Thân dịch sát nghĩa là Phật Sử. (ND)
[28]
Madhuratthavilāsinī: Madhuralà ngọt nào, dịu dàng, tươi mát; attha là ý nghĩa;
vilāsinī là người nữ, hoặc sáng ra, diễn ra lộng lẫy, sở hữu nét duyên dáng hoặc
ân sủng, duyên dáng. Hán dịch là Hiểu Minh Diệu Nghĩa (显明妙义) hay Diệu Ý Tuyệt Mỹ (妙意悦美).
Anh dịch là The Clarifier of the Sweet Meaning (Diễn Giải Ý Nghĩa Tuyệt Duyệt).
Ở đây dịch là Diệu Ý Minh. (ND)
[29] Cariyāpiṭaka:
Cariyā là cách cư xử, hành vi; piṭaka là giỏ chứa. Anh dịch là The Basket of
Conduct (Giỏ Chứa Của Cách Cư Xử). Ngài Minh Châu dịch theo Hán là Sở Hạnh
Tạng. Ngài Chánh Thân dịch sát nghĩa là Hạnh Tạng. (ND)
[30] Dhammasaṅgaṇī:
Dhamma là pháp, chỉ cho tất cả mọi thứ có trạng thái riêng biệt; saṅgaṇī đồng
nghĩa với saṅgaha nghĩa là gom góp, tụ tập hay phân loại thành, bao hàm… Ngài
Tịnh Sự dịch là Pháp Tụ. Hán dịch là Pháp Tập (法集) hoặc Pháp Tụ (法聚).
Anh dịch là Buddhist Psychological Ethics (Đạo Đức Tâm Lý Phật Giáo) không sát
nghĩa lắm vì bộ này còn nói về Sắc Pháp, Vô Vi Giới nữa. Ở đây vẫn giữ chữ Pháp
Tụ. (ND)
[31] Atthasālinī: Attha
là lợi ích, cũng là ý nghĩa; sālinī gần với chữ sālin là ưu tú, vượt trội hay
sālīna là tốt đẹp. Hán dịch là Thắng Nghĩa Thuyết (勝義説)
hay Thù Thắng Nghĩa (殊胜义). Anh dịch là The
Expositor (Mô tả Giải thích). Xét dịch sát từ, dùng từ trang trọng làm tiêu đề,
ở đây dịch là Thắng Nghĩa. (ND)
[32] Vibhaṅga nghĩa là
phân phối, phân chia, phân loại. Ngài Tịnh Sự dịch là Phân Tích. Hán dịch là
Phân Biệt (分别). Nội dung thuyết giải
phân biệt nhiều phương diện của các pháp. Anh dịch là The Book of Analysis
(Sách Phân Tích). Về nghĩa Phân Tích là chia tách ra để giảng giải, nghiên cứu
là sát với nghĩa nguyên nên giữ cách dịch này. (ND)
[33] Sammohavinodanī: moha
là si, sammoha là si ám, vinodanī là làm cho tiêu tan, mất đi. Hán dịch là Mê
Hoặc Băng Tiêu (迷惑冰消) hay Phá Trừ Ngu Si (破除愚痴).
Xét sát nghĩa, xét dễ hiểu, dịch là Tiêu Trừ Si Ám. (ND)
[34] Kathāvatthu: Kathā
là lời nói hay diễn thuyết; vatthu là cơ sở, nền tảng, cũng có nghĩa là câu
chuyện hay sự việc. Trưởng Lão Tịnh Sự dịch là Ngữ Tông. Hán dịch là Luận Sự (论事). Anh dịch là Points of
Controversy (Những Điểm Tranh Luận). Xét mặt dịch sát từ ngữ, trang trọng để
làm tiêu đề và dễ hiểu theo ngôn ngữ đương đại nên chọn từ Luận Sự. (ND)
[35]
Pañcappakaraṇaṭṭhakathā: Pañca là 5; pakaraṇa là dịp, tác phẩm hay bình luận;
aṭṭhakathā là Chú Giải. Hán dịch là Ngũ Thư Luận Nghĩa (五论释义). Đây là Chú Giải cho 5 bộ sau của Tạng Vi Diệu
Pháp. Ở đây dịch là Chú Giải Ngũ Thư. (ND)
[36] Puggalapaññatti:
Puggala là người, chỉ chung cho tất cả các loài có mạng quyền (danh và/hoặc sắc
mạng quyền); paññatti là chế định, tức là tạo ra, định đặt ra. Trưởng Lão Tịnh
Sự dịch là Nhân Chế Định. Hán dịch là Nhân Thi Thiết (人施设). Anh dịch là A Designation of Human Types (Một
Sự Định Đặt Về Các Loại Người). Các cách dịch này đều tương đồng nhau, nhưng
xét ra cách dùng từ Nhân Chế Định rõ nghĩa nhất theo từ ngữ thường dùng nên giữ
cách này. (ND)
[37] Dhātukathā: Dhātu
là giới, tức là các pháp bảo tồn thực tánh (Attano sabhāvaṃ dhāretīti), chỉ cho
18 Giới; kathā là lời nói hay diễn thuyết. Trưởng Lão Tịnh Sự dịch là Nguyên
Chất Ngữ, sau rút gọn là Chất Ngữ để khỏi nhập nhằng từ Giới (界)
trong cõi giới… sang nghĩa của từ cũng dịch là Giới (戒)
trong Giới Luật (Sīla). Hán dịch là Giới Luận (界论) vì đã rõ mặt chữ cho chữ Giới. Anh dịch là Discourse on Elements
(Đàm Luận Về Các Nguyên Tố). Xét tiêu chí sát nghĩa trên Pāḷi, nhất quán trong
thuật ngữ dịch các thuật ngữ, ở đây dùng từ Giới Thuyết, tránh chữ Luận vì chữ
này thường được thêm vào sau các tác phẩm để gọi theo cách của Hán ngữ như
Thắng Pháp Tập Yếu Luận (Abhidhammatthasaṅgaho)… (ND)
[38] Yamaka là đôi, cặp.
Ngài Tịnh Sự dịch là Song Đối. Ngài Minh Châu dịch chữ này là Song Yếu (trong
phẩm đầu kinh Pháp Cú). Hán dịch là Song Luận (双论). Xét về nội dung, bộ này gồm các cặp câu bao gồm 2 phần gọi là
Thuận Cách (Anuloma) và Nghịch Cách (Paṭiloma); trong mỗi cách này lại có 2 vế,
vế đầu xác định giả thiết gọi là Xác Đề (Sannṭṭhāna), vế sau xác định trình bày
nghi vấn gọi là Nghi Đề (Saṃsaya); trong Nghịch Cách, Xác Đề thành Nghi Đề và
ngược lại. Vì vậy chữ Đối dùng ở đây phần nào diễn tả rõ ý này hơn. (ND)
[39] Paṭṭhāna xét nguyên
chữ là khởi sự tiến tới, khởi điểm... Nếu chiết tự ra thì có thể giải ṭhāna là
nơi chốn, sự kiện, cũng có nghĩa là điều kiện, nguyên nhân… Ngài Tịnh Sự dịch
là Vị Trí. Hán dịch là Phát Thú (發趣) vừa là dịch âm, vừa là
dịch nghĩa là bắt đầu hướng tới theo như cách dịch nguyên từ. Anh dịch là
Conditional Relations (các liên hệ điều kiện). Về nội dung, bộ này trình bày về
24 duyên và các cách phối hợp khác nhau. Trong Chú Giải của bộ này có
đoạn: Kenaṭṭhena paṭṭhānanti?
Nānappakārapaccayaṭṭhena. ‘Pa-kāro’ hi nānappakāratthaṁ dīpeti, ṭhānasaddo
paccayatthaṁ. Hán dịch: Sở vị 'phát
thú': các chủng bất đồng đích duyên chi nghĩa. 'Phát' giải thích các chủng bất
đồng đích (duyên) chi nghĩa.' thú' duyên chi nghĩa. (所谓「发趣」︰各种不同的缘之义。「发」解释各种不同的(缘)之义。「趣」缘之义。)
Tạm dịch: Paṭṭhāna có nghĩa là gì? Vì trình bày về nhiều loại duyên. Chữ Pa chỉ
cho ý nghĩa nhiều loại, còn chữ ṭhāna nghĩa là duyên. Theo nghĩa này của Chú
Giải nên dịch bộ này là Đa Nguyên. Đa Nguyên dễ hiểu là Đa Nguyên Luận
(pluralism), xét về nghĩa nguyên từ triết học tức là chỉ thừa nhận sự tồn tại
của nhiều nguyên thể khác biệt, độc lập với nhau trong thế giới, thế giới được
hợp thành bởi nhiều bản nguyên. Nghĩa này rất gần với nghĩa của bộ này nên cách
thiết nghĩ dịch này có thể chấp nhận được. (ND)
[40] Chỉ cho Chú Giải
Pháp Cú (Dhammapadaṭṭhakathā). (ND)
[41] Từ này chiết tự
thành 'attha', theo Warder là "mục đích" và là "ý nghĩa"
theo như một số khả năng dịch thuật của nó; cộng với 'kathā', theo ông là
"nói chuyện" hoặc "câu chuyện" (Pali,19, 52). Collins dịch
là "nói ra nó có nghĩa là gì" theo như "nghĩa đen của từ
aṭṭhakathā" (74).
[42] Thủ đô của Tích Lan
trong gần 15 thế kỷ. Nó được xây dựng tại nơi các khu định cư, ban đầu được làm
cho hai vị Anurādha trên bờ của sông Kadamba, và cũng vì nó được thành lập
trong thời gian của chòm sao Anuradha, nên có tên như vậy (MT.293. Mhv.x.76);
truyền thống này dường như đã bị lãng quên sau đó, trong Mbv (116) cho rằng
thành phố đã được gọi như vậy bởi vì nó là ở của người dân hài lòng
(anurodhijana), hoặc là chỉ lặp lại âm đầu này. Đại Sử (Mahāvaṃsa) có các đoạn
chép về nợi này như sau: “Vua cũng sai lập nên bốn vùng ngoại ô cũng như hồ
nước Abhaya, nghĩa địa chung, nơi xử trảm, miếu thờ các hoàng hậu quá vãng, cây
đa Vessavana và cây thốt nốt của dạ xoa của các thứ bệnh (vị thần của những thợ
săn), chỗ đất được đặt riêng dành cho những Yona và nhà đại tế tự, tất cả những
khu vực này vua bố trí ở gần cổng tây” hoặc “Ở phía bên kia của ngôi nhà của
jotiya và ở phía bên này của hồ Gana.ni, đức vua cũng xây dựng một tịnh xá dành
cho những vị du sĩ, một chỗ ngụ dành cho những vị Aajiivakavaa, một chỗ ngụ
dành cho những Bà-la-môn. Rãi rác chỗ này chỗ nọ, Vua xây dựng một nhà hộ sinh
và một nhà lớn dành cho những người bịnh.” (theo bản dịch của TK Minh Huệ).
(ND)
[43] Mahāvihāra: Đại Tự.
Xem thêm trong Diệu Pháp Yếu Lược (Saddhammasaṅgaha) có đoạn “Tato Mahā-thūpa-patiṭṭhānāto
satta-paññāsa-saṃvaccharesu atikkantesu Vaṭṭagāmiṇi-abhaya-mahārājā Laṅkā-dīpe
rajjaṃ kāresi. So rājā Abhayagiri-mahāvihāraṃ kārāpetvā tasmiṃ vihāre
sadhātukaṃ mahāthūpappamāṇaṃ mahantaṃ cetiyaṃ kārāpetvā Mahātissatthera
pamukhassa bhikkhusaṅghassa nīyādesi.” Ngài Chánh Thân dịch là: “Năm mươi bảy năm đã trôi qua sau ngày
xây dựng Đại Tháp (Mahāthūpa), đại vương Vaṭṭagāmaṇi-abhaya đã trị vì vương
quốc ở hòn đảo Laṅkā. Vị vua ấy đã cho xây dựng đại tu viện Abhayagiri. Trong
tu viện ấy, nhà vua đã cho kiến tạo ngôi bảo tháp vĩ đại tương đương với
Mahāthūpa, có an trí xá lợi, rồi đã dâng cúng đến hội chúng tỳ khưu có trưởng
lão Mahātissa dẫn đầu.” Tác giả sẽ giải thích điều này ở chú thích kế. (ND)
[44] Nếu bạn là người
hoàn toàn mới tiếp cận Chánh Tạng, bạn sẽ cần phải biết rằng Tam Tạng kinh điển
đề cập đến ba Tạng, tức là 'giỏ' hoặc 'bộ sưu tập' các bản văn trong Chánh Tạng
- ba đề mục in đậm ở bảng trên là: Luật Tạng, tức là các quy tắc của đời sống
xuất gia; Kinh Tạng, tưc là lời nói của Đức Phật; và Vi Diệu Pháp Tạng, tức là
các 'Pháp Siêu Lý', được biên tập sau Đức Phật diệt độ nhằm nỗ lực hệ thống hoá
tất cả mọi thứ được đề cập đến trong lời giảng của Ngài. Tương tự như
vậy, bạn nên biết rằng các Mahāvihāra, hoặc Đại Tự, là một trong các tổ chức
Phật giáo lớn tại Sri Lanka, đại diện các truyền thống Phật giáo Therravāda
chính thống trái lại với các Tu viện Abhayagiri chấp nhận các Chánh Tạng và
giải thích khác, có thể là "Đại thừa". Anurādhapura là thủ đô của Sri
Lanka trong thời gian chưa rõ.
[45] Đối với Collins,
kết luận này là một phần trong lý luận của ông rằng, "Khác với các học
phái trước học phái Theravāda, Chánh Tạng Pāḷi là cơ sở văn bản mà từ đó học
phái đã phát sinh và đây cũng là điều mà học phái này tìm cách bảo quản. Chánh
Tạng Pāḷi... nên được xem như là một thành phẩm của học phái, như là một phần
của mộtquá trình chính thống hóa được tiến hành bởi các nhà sư ở Mahāvihāra tại
Tích Lan trong thế kỷ đầu của thiên niên kỷ đầu tiên Công Nguyên"(72)
[46] Tiếng Sinhala (සිංහල, ISO 15919: siṁhala, phát âm: [ˈsiŋɦələ], cũng
được gọi thay thế trong tiếng Anh là “Singhalese”), có khi được gọi là tiếng
Helabasa là một ngôn ngữ thuộc nhánh Ấn-Aryan của Ngữ hệ Ấn-Âu. Đây là ngôn ngữ
mẹ đẻ của người Sinhala, nhóm dân tộc đông nhất tại Sri Lanka với 15 triệu
người sử dụng, tiếng Sinhala cũng là ngôn ngữ thứ hai của các dân tộc khác tại
đất nước này với khoảng 3 triệu người. (ND)
[47] Tức là tiếng Pāḷi.
(ND)
[48] Ở đây chỉ cho Thanh
Tịnh Đạo. (ND)
[49] Nguyên văn:
graceful language that conforms with Scripture. (ND)
[50] Một lần nữa, cho
những ai mới đọc Chánh Tạng: Chữ ‘Kết Tập’ nói ở đây là cuộc họp của các nhà sư
thượng thủ trong thời đại của họ, được tổ chức để thống nhất, thiết lập và duy
trì giáo lý của Đức Phật. Kỳ kết tập đầu tiên được tổ chức vài tháng sau khi
Đức Phật nhập diệt, và có những giải thích không đồng ý rằng liệu Vi Diệu Pháp
đã được trùng tụng tại thời điểm đó ở hình thức nào. Kỳ kết tập thứ hai đã được
tổ chức một trăm năm sau đó để giải quyết tranh cãi về cách hành xử của bậc
xuất gia, chủ yếu việc các nhà sư sử dụng tiền. (Về hai kỳ kết tập đầu tiên,
xem Warder, Indian Buddhism, Ch. 7). Kỳ kết tập thứ ba, được tổ chức sau đó
khoảng một trăm năm, được triệu tập bời vua A Dục để giải quyết các vấn đề giáo
pháp, và dẫn đến bộ Katthāvattu là tác phẩm chính duy nhất không phải Phật
thuyết được bổ sung vào Chánh Tạng. Trong tác phẩm này, hàng trăm của các điểm
tranh cãi đã được đừa ra bàn luận. (Xem Kalupahana, Chs 12-13.) Ngay sau khi
Asoka cử ngài Mahinda đi truyền giáo để mang Phật Giáo đến cho Sri Lanka. Lưu ý
rằng tại thời điểm này chỉ là mới vào thế kỷ thứ ba trước Tây Lịch, và Chánh
Tạng chưa được viết lại lần nào cho đến mãi 200 năm sau, vào lúc Đại Tự cảm
thấy bị đe dọa và muốn bảo vệ chắc chắn bản Tam Tạng của họ phòng khi không có
đủ người trùng tuyên (Ñāṇamoli xxvi-xxvii).
[51] Nguyên văn: The
fact that the commentarial material was already of a disparate nature would
probably have led to an attempt to impose homogeneity upon it, and also to make
it more intelligible to the Sinhalese bhikkhus by translating it into the
vernacular language. (ND)
[52] Đoạn trích này dùng
chữ B.C. (ND)
[53] Nguyên văn:
Buddhaghosa does not bring the events down to his day, so that it may be
assumed that the last of the events recorded in his commentaries were also
found in the Sinhala originals. (ND)
[54] Vasabha (Sinhala: වසභ) là một vị vua của thời kỳ Anuradhapura ở Sri
Lanka. Ông được coi là người tiên phong trong việc xây dựng các công trình thủy
lợi quy mô lớn ở Sri Lanka để hỗ trợ việc trồng lúa. 11 hồ chứa và 12 kênh được
xây dựng trong suốt triều đại của ông. Ông cũng xây dựng một số đền thờ Phật
giáo ngoài việc tu bổ đã có những cái hiện có. Vasabha bắt đầu một triều đại
mới trong lịch sử của các triều đại Sri Lanka, đã chiếm ngôi vua sau khi giết
Subharaja, người cai trị lúc đó của Anuradhapura. (ND)
[55] Rudradaman I (r.
130-150) là vị vua dòng Shakya của Malwa, một phần của triều đại Tây
Kshatrapas. Ông là cháu của vua Chastana dòng Shakya nổi tiếng. Rudradaman I đã
có công trong việc mở rộng vương quốc Ror và tiêu diệt Đế chế Satavahana. (ND)
[56] Mahasen, còn được
gọi trong một số ghi chép là Mahasena, là một vị vua của Sri Lanka, người cai
trị đất nước từ 275 đến 301 Tây Lịch. Ông bắt đầu xây dựng các bể chứa hoặc hồ
chứa lớn ở Sri Lanka, và xây dựng 16 bể chứa như vậy. Sau khi trở thành vua,
Mahasen kỳ thị Phật Giáo Theravāda trong nước, và phá hủy nhiều đền
thờ như Mahavihara, ngôi chùa Theravāda chính, trước khi thừa tướng đã giúp ông
nhận ra sai lầm của mình. Bảo tháp xá-lợi Jethavana cũng được xây dựng bởi
Mahasen. Thần dân của ông coi ông như một vị thần sau khi xây dựng bể chứa
Minneriya, và ông được tôn xưng là Minneri Deviyo (vị thần của Minneriya). (ND)
[57] Kinh số 33 thuộc
Trường Bộ. (ND)
[58] Kinh số 141 thuộc
Trung Bộ. (ND)
[59] Kinh số 18 thuộc
Trung Bộ. (ND)
[60] Nguyên văn:
verbatim. (ND)
[61] Nguyên văn: it
seems obvious that the redactors used palm leaf slips for certain key words.
(ND)
[62] Có vẻ giống như ghi
sao bằng giấy than (?!). (ND)
[63] Nguyên văn: In the
Nikāya-commentaries texts are duplicated deliberately to make every single
commentary, combined with [the Visuddhimagga],
independent of the other three. Tức là nói đến bộ 3 gồm bản văn, bản văn lặp
lại và đoạn giải thích trong Thanh Tịnh Đạo. (ND)
[64] Chỉ cho 4 bộ chú
giải của Nikāya.
[65] Ñāṇamoli đã nói
rằng ông đã thực hiện các bản dịch của mình bởi vì các bản dịch trước đó của Pe
Maung Tin (3 vols. 1922-1931) là "không còn kiếm được" (xxi).
[66] Nguyên văn:
commentator . (ND)
[67] Nguyên văn: In
place of the archaic, stilted, sometimes halting Sutta speech, almost Puritanical in its simplicity, groping about
often for want of words to express ideas and conceptions then fresh to the
minds of the users of this or that dialect, Buddhaghosa left behind him in his
many works a language rich in its vocabulary, flexible in its use, elegant in
structure, often intricate in the verbiage of its constructions, and capable of
expressing all the ideas that the human mind had then conceived. (ND)
[68] Lộ trình tâm (citta-vithi) là tiến trình có trật tự, thứ lợp sanh khởi và hoại diệt của các
tâm trong một khoảng liên tục các sát na để thực hiện trọn vẹn một quá trình
của nhận thức. Vì tứ danh uẩn đồng sanh nên lộ trình tâm cũng được gọi là danh
lộ (nāmavīthi). Theo cách giải hiện tại, có 455 loại lộ khác
nhau. (ND)
[69] Pháp chế định là
các pháp do quy ược mà giả định lập thành, gồm có Danh Chế Định (nāmapaññatti) (có chỗ gọi Danh là Thinh (sadda) hay Danh Nghiệp (nāmakama) hay Danh Chỉ Định (nāmadheyya)
hay Danh Từ (nāmanirutti) hay Danh Nghĩa (nāmabyañjana) hoặc Danh Diễn Nghĩa (nāmabhilāpa))
và Nghĩa Chế Định (atthapaññatti). Danh Chế Định có 6 là Danh Chơn (vikkamāna), Phi Danh Chơn (avikkamāna),
Danh Chơn - Phi Danh Chơn, Phi Danh Chơn - Danh Chơn, Danh Chơn - Danh Chơn và
Phi Danh Chơn - Phi Danh Chơn. Nghĩa Chế Định có 7 (hoặc 8 tùy nơi giải), gồm
Hình Thức Chế Định (saṇṭhanapaññatti), Hiệp Thành Chế Định (samūhapaññatti), Chúng Sanh Chế Định (sattapaññatti),
Phương Hướng Chế Định (disāpaññatti), Thời Gian Chế Định (kālapaññatti), Hư Không Chế Định (ākāsapaññatti),
Tiêu Biểu Chế Định (nimittapaññatti) (và Đề Mục Chế Định (kasiṇapaññatti). Có nơi lại giải chia thành 9 loại do tách Hình Thức Chế Định
thành Hình Sắc Chế Định (santānapaññatti) và Loại Hình Chế Định (sandhānapaññatti). Bộ Nhân Chế Định lại nêu có sáu pháp chế
định: Uẩn Chế Định, Xứ Chế Định, Giới Chế Định, Đế Chế Định, Quyền Chế Định, và
Nhân Chế Định. (ND)
[70] Gọi là Tứ Ý Nghĩa.
(ND)
[71] Sát-na (khaṇa) là đơn vị thời gian của một tâm tồn tại từ sanh đến diệt, xét
theo nghĩa của lộ trình tâm. (ND)
[72] Thực tính (sabhāva) là thể tính, bản chất, bản thể thật, tức là có tứ ý nghĩa riêng biệt.
(ND)
[73] Nguyên văn:
familiar cry. (ND)
[74] Nguyên văn:
fanciful etymologies. (ND)
[75] Đoạn này nói về
Nghiệp Dị Thời cho bởi Tâm Đổng Lực thứ nhất, Tâm Đổng Lực cuối cùng và các Tâm
Đổng Lực Khác trong lộ trình tâm. (ND)
[76] Vì thời của Hinüber cách
khá xa thời của tác giả. (ND)